KỶ NIỆM 85 NĂM NGÀY THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(03/02/1930 - 03/02/2015)
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI NĂM 1930 MỞ
RA
BƯỚC NGOẶT
LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Bối cảnh ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
- Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế
quốc làm cho đời sống nhân dân
lao
động các nước trở nên
cùng cực. Mâu
thuẫn
giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
- Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới
- thời đại cách mạng chống đế quốc, thời
đại giải phóng
dân
tộc. Cách
mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm
gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
- Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc
đẩy
sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng
sản
có
vai trò quan trọng trong
việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
b. Bối cảnh trong nước
Năm 1858, thực
dân Pháp nổ súng
tấn
công xâm lược và từng
bước thiết
lập
bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc
gia
phong kiến thành thuộc
địa nửa phong kiến.
- Về chính trị: Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị
riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị
đối với nhân dân Việt Nam.
- Về kinh tế: Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng
một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
- Về văn hoá: Thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây
tâm
lý tự ti, khuyến khích các hoạt
động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của
nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng
của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để
dễ bề cai trị.
* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam:
- Dưới tác
động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội
Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu
kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm
ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ
khác nhau.
+ Giai
cấp
nông dân là lực lượng đông
đảo nhất trong xã hội
Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề.
Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc
đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt
chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.
+ Giai cấp tư sản Việt
Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn
ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và
yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí
thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị
phá sản trở thành người
vô
sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
- Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận
người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì
vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu
và
ngày càng gay gắt trong đời sống
dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn
thể nhân dân
Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là
xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm
lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến,
giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
* Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX:
- Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả.
Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ
phong kiến, do giai cấp
phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là
khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng
Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
- Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các
phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng
sâu sắc về đường lối cứu nước.
2. Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Cùng với những người yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước, ngày
05/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước.
- Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện
ra
chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như
ở các nước thuộc địa.
- Năm 1917, Người trở lại Paris và năm
1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
- Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là
Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Véc-xây.
- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc Việt Nam.
- Tại Đại hội Đảng
Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn
Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
Quốc tế
III (Quốc tế
Cộng
sản
do
Lênin sáng lập) và tham gia thành
lập
Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý
luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn
đánh dấu bước chuyển
quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
- Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào Cộng sản quốc
tế,
Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
- Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về
lý
luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người nhấn mạnh: Cách mạng muốn
thành
công
phải có Đảng
cách mạng chân
chính
lãnh đạo; Đảng
phải có hệ tư
tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư
tưởng Mác-Lênin.
- Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận
tại các đại hội, hội nghị
quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh
niên, Công nông, Lính Kách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
xuất bản tác phẩm “Đường Kách mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở
lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn bị
về
đường lối
chính trị tiến tới
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách
mạng phải có một Đảng lãnh
đạo, Đảng có vững, cách mạng
mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
- Trong
thời gian này, Người cũng tập trung
cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán
bộ. Người lập ra Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học
Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc)
nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ
Nguyễn
Ái Quốc và nhiều
đồng chí cách
mạng tiền bối mà
những
điều
kiện
thành lập Đảng ngày càng chín muồi.
- Cuối năm 1929
đầu
năm 1930, những người cách
mạng Việt Nam trong các tổ
chức cộng sản đã nhận thức
được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một
Đảng Cộng sản thống
nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
Được sự phân công của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.
- Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An
Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn) thành
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng Cộng
sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể
của cách mạng
Việt
Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
- Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành
lập
Đảng. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng Cộng
sản
Việt Nam được thông
qua tại
Hội
nghị hợp nhất
do Nguyễn Ái
Quốc chủ trì
chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng
2 (dương lịch) hằng năm
làm
ngày kỷ niệm
thành lập Đảng.
3. Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng:
- Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng
Cộng
sản
ở Việt Nam thành
một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng
đắn, tạo nên sự thống nhất về tư
tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách
mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc
và
đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng
Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con
đường phát triển của dân tộc ta.
- Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện than trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộ và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường
cách mạng
là
giải phóng
dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng
sản
Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết
được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất
nước Việt Nam. Chính
đường
lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự
đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành
cuộc cách
mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt
85 năm qua.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng
thời cách mạng Việt
Nam cũng
góp
phần
tích
cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
II. 85 NĂM XÂY
DỰNG VÀ
TRƯỞNG THÀNH - CHẶNG ĐƯỜNG VINH
QUANG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945):
- Đặc điểm của thời kỳ này là cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong lãnh đạo là Đảng Cộng sản với Cương lĩnh chính trị đúng
đắn, đưa cách mạng nước ta phát triển theo xu thế của thời đại
đã được mở ra từ Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng
Mười Nga năm 1917.
- Quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền (1930-1945) đã
diễn
ra
với 3 cao trào cách mạng
chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám giành toàn bộ chính quyền về tay Nhân dân: Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô
Viết Nghệ Tĩnh, cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và cao trào
giải phóng dân tộc dẫn tới Cách mạng Tháng Tám 1945 (1939 - 1945). Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã trưởng thành và phát triển về mọi mặt: Chính trị, tư tưởng, tổ chức, về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. đường lối cách mạng giải
phóng dân
tộc, chống đế quốc và
chống phong kiến không ngừng
được
bổ
sung, phát triển, đặt nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu, vận dung đúng đắn
và
có sự phát triển sáng tạo lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa.
- Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đã chấm dứt, xóa bỏ chế độ thực
dân và
phong kiến, mở ra kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên
độc
lập
dân tộc và
chủ
nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc.
Cách mạng Tháng Tám dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước Công
Nông đầu tiên ở Đông
Nam châu Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong lịch sử đấu
tranh
cách mạng của
dân tộc ta trong thế kỷ XX.
Đó
cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài mặt trận Việt Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi”. Người nhấn mạnh: “Với thắng lợi
của cuộc Cách mạng Tháng Tám, chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao
động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng
mới 15 tuổi đã lãnh
đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
2. Thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, tiến
hành 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975):
- Năm 1945 - 1946,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân vượt qua
những khó khăn, thách thức nặng nề, chống thù trong, giặc ngoài, vừa kháng chiến
vừa kiến quốc: xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; bầu cử Quốc hội (6/1/1946); xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân; chống giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm; tổ
chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và
chi
viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính
quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám; thực hành sách lược khôn khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp xâm lược, lúc thì hoà với Pháp để đuổi Tưởng Giới Thạch, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc để triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm
nghèo. Chúng ta
đã chủ
động chuẩn
bị những điều kiện cần thiết để
đối
phó với cuộc chiến
tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước. Thành
công
nổi bật của
hơn một năm xây dựng chính quyền non trẻ là đã tăng cường được sức mạnh của cách mạng để có thể tự
bảo vệ trước sự tấn công từ bên ngoài.
- Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến
với quyết
tâm: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; vừa kiến quốc vừa kháng chiến
dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu ngày 07/5/1954. Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu
phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
* Từ năm 1954 đến năm 1975, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đây là đặc điểm
mang tính đặc thù của cách mạng Việt Nam, cùng với mục tiêu độc lập dân tộc, mục tiêu xã hội chủ nghĩa được đặt ra trực tiếp.
- Đế
quốc Mỹ phá hoại hiệp định Gơnevơ, hất chân thực
dân Pháp, độc chiếm
miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Dân tộc ta lại phải đương đầu với chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Đảng ta đã
lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, bảo vệ nền độc lập dân tộc và thống
nhất Tổ quốc, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân được nâng lên tầm cao khoa học và nghệ thuật. Đương đầu với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, chúng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại, quyết tâm giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc trong điều kiện hai miền thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, trong điều
kiện
từ
một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi Đảng ta phải
vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và kinh
nghiệm các nước xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo Nhân
dân
ta tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản:
giữa tiến hành chiến tranh cách mạng với xây dựng chủ nghĩa
xã hội; giữa
hậu
phương
lớn
với tiền tuyến lớn;
giữa thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
giữa quy luật chiến tranh
và
quy luật xây dựng phát
triển
kinh tế; giữa đẩy
mạnh chiến tranh cách
mạng ở nước ta với bảo vệ
hòa bình thế giới; giữa lợi ích dân tộc với thực hiện nghĩa vụ quốc tế…
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc đã thu được những thành tựu quan trọng. Vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, miền Bắc đã nhanh chóng khôi
phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo
đảm quốc phòng an ninh, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; xây dựng hậu phương vững
mạnh, trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, bảo
đảm mọi mặt cho tiền
tuyến đánh thắng; mở rộng
quan hệ đối ngoại, tranh thủ
sự
đồng tình và ủng hộ của các nước
trên thế giới; tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc
đấu
tranh
chống Mỹ cứu nước; tạo những cơ sở vật chất và những kinh nghiệm quý báu trong sự
vận
dụng và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sau này.
3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước từ năm
1975 đến nay:
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này bao gồm hai giai đoạn chủ yếu:
- Từ năm 1975 đến năm 1986:
+ Sau chiến tranh, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa
ra
sức khôi
phục
kinh
tế
vừa tiến hành hai cuộc
chiến tranh chống
xâm lược
biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
+ Đảng đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong việc hoạch định và thực hiện
đường lối cách mạng
xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ
quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân
dẫn
đến
sự
trì trệ, khủng
hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết sáng kiến từ
thực tiễn của nhân dân, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, đó là Nghị quyết số 21-
NQ/TW ngày 20/9/1979 của Hội nghị lần thứ 6
Ban Chấp hàn Trung ương Đảng, khoá
IV
về phương
hướng, nhiệm vụ phát triển công
nghiệp hàng tiêu dung và công nghiệp địa phương; Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm
trong nông nghiệp; Quyết định 25/CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản
lý
kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khoá V (tháng
6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá; Kết
luận của Bộ Chính trị (tháng 9/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới…
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện
đất
nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Từ 1986 đến nay:
+ Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội
VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định
tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm
và
phương hướng phát
triển
đất
nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
+ Từ đó đến nay, Đảng ta tiếp tục phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm lý luận về công
cuộc
đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây
dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới được bổ sung và phát triển ngày càng hoàn thiện. Những thành tựu, kinh nghiệm sau gần 30 năm đổi mới đã tạo ra cho đất nước thế và
lực mới, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước; toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những
thành tựu quan trọng: Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được tốc
độ
tăng trưởng hợp lý, các ngành đều có bước phát triển, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên; giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã
hội có tiến bộ; bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống của các tầng lớp Nhân dân được cải thiện; chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng an ninh
được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố;
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạn, hiệu lực, hiêu quả hoạt
động được
nâng lên; công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng được
tăng cường, đạt một số kết quả tích cực; việc thực hiện Nghị quyết Trung ương IV khóa XI
“Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đạt được một số kết
quả bước
đầu; đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng,
Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển
vọng phát triển của đất nước.
III. NHỮNG THẮNG LỢI
VĨ ĐẠI CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM DƯỚI
SỰC
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SUỐT 85 NĂM
QUA VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH
NGHIỆM
1. Những thành tựu vĩ đại
Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sang lập và rèn luyện, đã lãnh đạo Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài,
gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại, đó là:
Thứ nhất: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc
ta
tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do.
Thứ hai: Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược
mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Thứ ba: Thắng lợi của công cuộc đổi
mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được trong
hơn 85 năm qua, nước ta từ một xứ
thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một
quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém
phát triển, đang đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ
quốc
tế rộng rãi, có vị thế
ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
2. Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh
quang
mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Hai
là, sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân
dân sẽ dẫn
đến những
tổn thất khôn
lường đối với vận mệnh
của đất nước, của
chế độ
xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là
nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước
với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự
chủ, nêu cao tinh thần hợp tác
quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không
có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng
cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ
sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng
đặt ra. Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng
phải
xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ
lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán
bộ, đảng viên.
3. Một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng:
- Thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn và không ngừng nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện tốt phương châm nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng
Đảng là then chốt, phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.
- Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng.
- Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đổi
mới công tác
xây
dựng Đảng, phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc, tập trung
dân chủ và các nguyên tắc khác, giữ
vững kỷ cương, kỷ luật.
- Chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh, chính
trị, phẩm chất trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn.
- Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
- Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra,
giám
sát.
- Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức
lãnh
đạo Nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
4. Tích cực xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh; xây dựng đất nước
ngày càng giàu đẹp:
- Những thắng lợi giành được trong 85 năm qua kể từ ngày có Đảng lãnh đạo là
minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và
sức mạnh to lớn của nhân dân ta. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh đạo đất nước ta tiến lên phía trước, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã không ngừng tự đổi mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
cách mạng
trước bối cảnh
thế
giới có nhiều
diễn
biến phức tạp. Công tác xây
dựng,
chỉnh đốn Đảng
về
chính trị, tư tưởng và tổ chức được
đẩy mạnh; tiếp tục
đổi mới và
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh; nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng...
- Công tác xây dựng Đảng được đặt ra trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Tiếp theo Cuộc vận
động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá
VIII, Đảng ta ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ
Chí Minh”, Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI ngày
16/1/2012 về một số vấn đề cấp bách xây dựng Đảng hiện nay,
Nghị quyết Trung
ương 7 khóa XI ngày 03/6/2013 về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác dân vận trong tình hình mới…
Sau thời gian triển khai thực hiện, các cấp uỷ đã quan
tâm phát hiện, ngăn chặn,
xử lý tiêu cực, sai phạm. Tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có tiến
bộ; việc thực
hành tiết kiệm, chống lãng
phí theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh đã chuyển biến rõ nét. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, ý thức trách nhiệm với công việc được giao của cán bộ được nâng lên, góp phần khắc
phục một bước tình
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Niềm tin của cán bộ và các tầng lớp nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố và nâng cao.
- Tự hào với những thắng lợi đã đạt được, hướng tới tương lai tươi sáng, lập thành tích thiết thực chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vững tay lái, sáng suốt lãnh đạo toàn dân tộc, trước mắt thực hiện
tốt các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011 - 2015 do Đại hội lần thứ XI
đề ra. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn
định chính trị -
xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thực tiễn 85 năm qua đã khẳng định: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt
Nam thật sự là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời
là đội
tiên phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam.
Kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô
cùng tự hào vì đất nước ta có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhân
dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng
đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hoà
bình và tiến bộ của nhân loại.
Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí
Minh
vĩ
đại, mỗi
cán
bộ, đảng
viên và mỗi người dân Việt Nam ở trong nước và ngoài nước càng thấy
rõ
hơn trách
nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững
mạnh, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”./.